Thơ: VÒNG TAY ÔM - THE EMBRACE và câu chuyện thật: AI CŨNG CẦN MỘT VÒNG TAY ÔM
Nguyễn Chí Long
*
Giữa quảng trường Tự do
Trong công viên Boston Common
Công viên cộng đồng đầu tiên của Mỹ
Xuất hiện thêm một tượng đài bằng đồng kỳ vĩ:
VÒNG TAY ÔM ! (1)
*
Vòng tay ôm
Vòng tay ôm
Hữu hình
Vô hình
Có từ lúc hình thành vũ trụ
Để mọi tố chất tự nhiên, siêu nhiên tồn tại,
chuyển giao, gắn kết, sinh tồn...
Và vòng tay ôm con người
trong trái tim yêu
Khởi đầu từ vòng tay ôm con của mẹ
Rồi lớn dần thành tình yêu từng linh hồn trần thế
Cho cuộc đời đổi mới, thăng hoa...
*
Vòng tay ôm
Mahatma Gandhi
Đủ năng lượng tình yêu san bằng bạo lực
Để Ấn Độ giành quyền độc lập
Chẳng hứng chịu điêu tàn qua cuộc chiến tranh
Vòng tay ôm
Nelson Mandela
Đủ năng lượng tình yêu
phá xích xiềng nô lệ
Cho Nam Phi đến đích tự do không cần bom đạn...
Vòng tay ôm
Abraham Lincoln
Sau cuộc nội chiến Bắc Nam xoá nỗi đau nô lệ
Không chấp nhận danh xưng thắng-bại
Là chất thuốc thần kỳ
Của trái tim nhân ái
Chữa lành hàng triệu vết thương
Bởi có người lính bên nào chẳng phải nhân dân
.....
Vòng tay ôm
Hội nghị Diên Hồng
Hoàng đế Trần Nhân Tông
Tư tưởng dân chủ đầu tiên chói loà lịch sử
Trao quyền quyết định vận mệnh quốc gia cho Bô lão
Có sức mạnh diệu kỳ
Đẩy lùi vó ngựa Nguyên Mông.
Vòng tay ôm
Vòng tay ôm
Công chúa mỹ nhân Huyền Trân
Quốc vương lãng mạn Chế Mân
Mở mang cõi bờ Đại Việt
Ôm tình yêu trong nỗi niềm chung-riêng
Hạnh phúc, khổ đau mấy ai hiểu được,
Gửi ngàn sau kinh kệ chuông chùa...
*
Vòng tay ôm hữu hình
Vòng tay ôm vô hình
Ôm tình yêu
Muôn đời
Vĩ đại
Là vòng tay Phật Thích Ca
Là vòng tay Chúa Giê-su
Thấu hiểu vũ trụ con người trăm ngàn sắc thái
Hạnh phúc, khổ đau, thông minh, khờ dại...
Soi sáng cho mỗi người
tự tìm chốn bình an
*
Trong công viên Boston Common
Vòng tay ôm
Có hình trái tim
Của Tiến sĩ Martin Luther King Jr.
Ôm ước mơ vĩ đại
(“Tôi có một ước mơ”: Mọi con người
được sống tự do giữa tình yêu, công bằng, bác ái) (2)
Và thiết tha ôm người yêu, người vợ.
Cùng nhau làm bệ đỡ
Thêm một vòng tay ôm
Cũng có hình trái tim
Của Coretta Scott
Truyền cảm hứng bằng tình yêu mãnh liệt
Cổ vũ quyền công dân
Thổi bay độc tài, quân phiệt
Phá tan bức tường ngăn cách
màu da, giới tính, giàu nghèo...
Cây liễu già còn dang cánh tay ôm
Tiếng nhạc hoà bình: Dòng Sông Xanh
qua nhiều thế kỷ (3)
Từng hạt cát công viên vẫn còn ôm giữ
Dấu chân lịch sử Mỹ thăng trầm (4)
Hồ thiên nga còn ôm giữ bóng hình
Johann Strauss
George Washington
John Adams
Giáo hoàng John Paul II
Martin Luther King Jr.
Thiền sư Nhất Hạnh
...
Hoa lá cỏ cây còn lao xao tiếng vọng
“Hãy quí yêu phẩm giá con người!”
“Hãy ôm giữ hoà bình, bình đẳng, công lý, tự do!”
“Hoà bình cho Việt Nam!”
...
Ngày buồn cuối tháng tư
Ngồi dưới tượng đài Vòng Tay Ôm
Có dáng hình trái tim độ lượng
Nghe tim mình đau thương, nhức buốt
Khi nghĩ về Việt Nam...
Ôi Việt Nam!
Cũng đã từng có vòng tay ôm
Mang danh đại đoàn kết
Mang mỹ từ thống nhất
Lại ôm theo ý thức hệ ngông cuồng
Chẳng còn trái tim yêu thương
Chỉ có lòng hận thù giai cấp
Chỉ có lòng tham quyền lực
Vòng tay ôm có hình cánh cung độc ác
Mang mũi tên: Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn
Bắn vào trái tim mẹ Việt
Máu rĩ đã gần trăm năm
Chẳng biết đến khi nào lành lại vết thương.
...
Phong-kiến-vàng xưa
Phong-kiến-đỏ nay
Ôm hết mọi thứ cuả nhân dân
Ôm độc quyền tài nguyên, cỏ cây, trời đất...
Ôm độc quyền luật pháp
Ôm độc quyền chân lý
Ôm độc quyền sự thật
Ôm độc quyền ngôn luận
Ôm độc quyền tự do
Và ôm giữ con người thân phận cừu nô.
Đi ngược con đường: Tiến hoá văn minh
(Con đường giải phóng quyền lực độc tài
trao lại cho đại biểu nhân dân;
Con đường giải phóng bầy đàn,
tôn kính cá nhân.)
*
Vòng tay ôm
Vòng tay ôm
Tượng đài nghệ thuật
Tượng đài tình yêu agape (5)
Là ngọn hải đăng:
Tình yêu hoà bình, công lý, bình đẳng, tự do
Tình yêu thiết tha chồng-vợ
Tình yêu nhân loại.
Là mặt trời mang từng tia hy vọng
Đến thân phận con người trong thế giới ích kỷ, đau thương.
*
Vòng tay ôm
Xin có hình trái tim
Trái tim tự do - tượng đài sáng chói
Không vướng xích xiềng thánh thần, vua quan, đảng phái
Không bị chi phối bởi gia đình, chủng tộc, giới tính, màu da.
Không quay lại cuộc sống bầy đàn theo tiếng gọi “chúng ta”(6).
Hiểu sức mạnh của vũ trụ cá nhân mình, cá nhân người
Nuôi dưỡng niềm tin hạt thiện cho đời
Và với tình yêu minh triết.
Dang tay ôm người thấu hiểu, bao dung!
CL 4/2023
(1)
Tượng đài điêu khắc bằng đồng “Vòng Tay Ôm”(The Embrace) được nghệ sĩ Hank Willis Thomas thiết kế, trừu tượng hoá từ hình chụp cái ôm của Tiến sĩ Martin Luther King và vợ ông, Coretta Scott King, ngay sau khi M. L. King đoạt giải thưởng Hoà Bình năm 1964, xuất hiện trong công viên Boston Common trước công chúng từ tháng 2/20223.
Mùa xuân năm 2021, một Uỷ Ban Nghệ Thuật, bao gồm nhiều nhà lãnh đạo văn hoá, nhà giáo dục, nghệ sĩ, nghiên cứu lịch sử... của TP. Boston đã chọn lựa 5 thiết kế nghệ thuật vào chung kết, trong số 126 thiết kế khắp nơi gửi đến dự thi trước đó một năm. Sau nhiều bàn thảo, Uỷ Ban đã chọn 3 trong số 5 thiết kế vào chung kết giới thiệu cho công chúng. Sau khi tham khảo 1000 ý kiến của công chúng Boston qua 3 thiết kế nghệ thuật sau cùng này, The Embrace của Hank Willis Thomas đã chiến thắng.
Vòng Tay Ôm -The Embrace, tượng đài tôn vinh cuộc sống đẹp, di sản văn hoá đồ sộ về tình yêu đôi lứa, yêu người, yêu đời, yêu công bằng, yêu sự thật, yêu lẽ phải, yêu tự do... của vợ chồng Martin Luther King, được nhiều người cho rằng, là tượng đài tự do của Boston, là biểu tượng sức mạnh bền bỉ và nguồn cảm hứng vô tận của tình yêu và hy vọng.
(2)
Xin đọc bài thơ “Tôi có một ước mơ” và ghi chú, trong mục Thơ của trang web này để biết thêm về Tiến sĩ Martin Luther King Jr.
(3)
Một sự kiện âm nhạc vô cùng hoành tráng đầu tiên trên thế giới đã diễn ra trên công viên Boston Common đã cách nay hơn một thế kỷ: Vào ngày 17/06/1872, trong lễ hội âm nhạc vì hoà bình, nhạc phẩm “Dòng Sông Xanh” của Johann Strauss (di sản văn hoá của nhân loại, nhạc phẩm nổi tiếng nhất của mọi thời đại, được hầu hết các nước trên thế giới yêu thích, là thông điệp về hoà bình, tình bạn, tình yêu, ước mơ và hy vọng) được trình diễn tại công viên Boston Common, và chính tác giả Dòng Sông Xanh, Johann Strauss, đã điều khiển một dàn nhạc gồm 20.000 nhạc công, với sự hỗ trợ của khoảng 100 nhạc trưởng, phục vụ cho 100.000 khán giả.
(4)
Công viên Boston Common; được thành lập vào năm 1634, rộng khoảng 20 ha, có rất nhiều cây, cỏ, hoa, chim, vịt, thỏ sóc..., có hồ nước và nhiều cây cổ thụ dáng rất đẹp, có nhiều tượng đài;
là công viên công cộng xưa nhất của Mỹ, là di tích lịch sử nổi tiếng với những sự kiện văn hoá, giáo duc, thể thao, âm nhạc ...trọng đại. Các cuộc mít tinh có qui mô lớn, có tầm ảnh hưởng đến toàn nước Mỹ và thế giới đã diễn ra ở đây, chẳng hạng như các cuộc biểu tình đòi dân quyền, tự do, bình đẳng, ...; đòi hoà bình cho Việt Nam trước năm 1975.
(5)
Tình yêu agape là tình yêu được đề cập trong Kinh Thánh, mang ý nghĩa đẹp đẻ và cao cả nhất của tình yêu. Thứ tình yêu có thể chấp nhận hy sinh để cứu rỗi nhân loại trước tội lỗi và lầm lạc trên con đường đi đến diệt vong.
(6)
Con đường tiến hoá văn minh nhân loại là con đường giải phóng con người của bầy đàn, thành con người tự do. Theo triết gia lừng danh Đức Immanuel Kant, người có ảnh hưởng lớn đến Kỷ Nguyên Khai Sáng, và cũng được xem là triết gia có ảnh hưởng nhất thế giới tính cho đến ngày nay, cho rằng: “Thứ xiềng xích dai dẳng đáng sợ nhất của nhân loại chính là xiềng xích của “tình trạng ấu thơ” trong ý thức về tự do”; và cũng theo một triết gia lừng danh khác của Đức G.W. Friedrich Hegel, triết gia lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm Đức, và cũng là một trong những triết gia lớn đặt nền móng cho triết học phương Tây hiện đại: “lịch sử thế giới suy cho cùng là quá trình tiến bộ trong ý thức về tự do”.
Trong sách có tên Anthem, xuất bản từ năm 1938, của Ayn Rand (1905-1982), nhà văn, triết gia, nhà biên kịch sân khấu và điện ảnh Mỹ, gốc Nga, đã đề cao giá trị không gì sánh được của một con người tự do, bà chống lại “chủ nghĩa tập thể”, “lý tưởng về mọi người” giả dối mà chế độ xô viết Nga đã áp đặt lên toàn xã hội và khẳng định sự chiến thắng của “cái tôi” bởi những con người dũng cảm, không chấp nhận cuộc sống bầy đàn trong thân phận nô lệ của các thiết chế cai trị độc tài. Bà viết (theo bản dịch của Trần Đan Hà):
“Thuở sơ khai, con người bị nô dịch bởi thánh thần, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích. Rồi anh ta nô dịch cho các vương tướng. Nhưng anh ta cũng bẻ gãy được xiềng xích. Anh ta bị nô dịch bởi sự sinh thành của mình, bởi dòng giống, chủng tộc của anh ta. Nhưng anh ta cũng bẻ gảy được xiềng xích. Anh ta tuyên bố với chung quanh rằng không một ai, từ thánh thần, vương tướng, cho đến những người khác, bất kể họ mang số gì, được tước đi những quyền của con người, vì đó là quyền làm người mà không một quyền nào trên trái đất này được phép đứng trên quyền ấy. Và anh ta đã đứng đó, ngay trên ngưỡng cửa tự do mà vì nó máu của hàng bao thế kỷ trước anh ta đã đổ. Nhưng rồi anh ta đã từ bỏ mọi thứ đã giành được, để rơi xuống thấp hơn cả thời khởi đầu mông muội của mình.
Điều gì khiến chuyện ấy xảy ra? Thảm hoạ nào đã lấy đi tính hợp lý của nhân loại? Ngọn roi nào đã buộc họ quỳ gối trong tủi hổ và phục tùng?
Đó là sự tôn thờ chữ “chúng ta”...”
Bà cũng là tác giả cuốn sách nổi tiếng khác là Fountainhead - Suối Nguồn, đề cao con người tự do và ý nghĩa cao cả của tình yêu.
Bà viết: “Để biết nói câu “Tôi yêu em/anh”, trước tiên phải biết cách nói từ “Tôi”” (To say “I love you” one must first know how to say the “I”) và giải thích: “ từ “Tôi”, mang ý nghĩa của một thực thể riêng, độc lập, tồn tại không vì lợi ích của bất kỳ ai khác. Một người chỉ tồn tại vì lợi ích của một người yêu khác, thì không phải là một thực thể độc lập, mà chỉ là một ký sinh. Và tình yêu của một ký sinh thì chẳng có giá trị gì.”
Chỉ khi nào con người thấu hiểu, yêu quí, tôn trọng giá trị vũ trụ của cá nhân mình, vũ trụ của cá nhân người, và dũng cảm vượt qua mọi chi phối của thánh thần, vua quan, đảng phái, gia đình, cộng đồng, tập thể...mới có thể là con người thật sự tự do. Và lúc đó mới có tình yêu đích thực, niềm tin đích thực; nhân tố làm cho xã hội liên kết tự nguyện chặc chẻ vững bền; thế giới hoà bình tiến hoá, văn minh.
Lê Hữu
1.
“Good night, sweet dreams.”
Genny gửi đi dòng text cuối cho Dick, bạn trai và cũng là đồng nghiệp của cô ở sở cảnh sát Dallas, khi vừa đặt chân đến trước cửa căn apartment của cô trên lầu. Lúc ấy khoảng gần 10 giờ đêm. Cô về muộn hơn mọi ngày sau ca trực kéo dài suốt 14 tiếng. Một ngày đầu tuần khá mệt mỏi và nhức đầu vì những chuyện lỉnh kỉnh chẳng đâu vào đâu. Cô cần nghỉ ngơi để lấy lại sức.
Khi vừa tra chìa khóa vào ổ khóa cửa phòng, Genny cảm thấy có điều gì bất thường. Cô luôn cẩn thận khóa cửa, tắt đèn mỗi khi rời nhà. Cửa dường như không khóa, cô xoay nhẹ tay nắm cửa, cánh cửa he hé mở. Genny khẽ giật mình, đặt tay lên báng súng như một phản xạ tự nhiên. Ánh đèn vàng từ bên trong hắt ra. Genny suy nghĩ thật nhanh. Ngoài Dick ra, không ai biết chỗ ở của cô. Kẻ nào đã đột nhập vào phòng cô?… Genny rút súng, lùi lại một bước, tay giơ cao khẩu súng ngắn, chân đạp mạnh vào cánh cửa.
“Đứng yên tại chỗ. Giơ tay lên!” Genny hét lớn.
Cửa mở toang. Cô trông thấy một gã đàn ông ngồi dựa lưng trên ghế sofa, hai chân duỗi thẳng, tay cầm vật gì đó. Gã chồm người dậy, nhìn chòng chọc vào cô.
“Bỏ ngay cái đó xuống. Giơ hai tay lên!” Genny nắm chặt khẩu súng bằng cả hai tay, chĩa thẳng mũi súng về phía kẻ lạ mặt.
Trước mắt cô là gã đàn ông da màu lạ hoắc. Gã mặc quần short, tay cầm vật gì lấp lánh cô không nhìn thấy rõ.
“Giơ hai tay lên! Bỏ cái đó xuống ngay, nếu không tôi bắn.” Genny quát lên và lùi lại một chút, hai tay vẫn nắm chặt khẩu súng.
Gã đàn ông đứng bật dậy, dáng cao lớn, khệnh khạng.
“Hey! Hey! Hey!” Gã trợn mắt, xăm xăm bước về phía cô…
“Đoàng! Đoàng!” Genny nổ liền hai phát. Gã bật ngửa ra sau, nằm ngay đơ, đầu gối lên thành ghế sofa.
Suốt những năm hành nghề cảnh sát, Genny vẫn được đồng nghiệp thán phục về tài thiện xạ, đã bắn thì không trật vào đâu được. Cô từ từ bước qua cửa, men sát theo vách tường rồi lọt hẳn vào phòng trong lúc hai tay vẫn không rời khẩu súng, hai mắt vẫn chăm chăm nhìn xuống thân hình bất động dưới chân mình. Gã da màu nằm im không nhúc nhích, máu loang trước ngực.
Genny đảo mắt một vòng, nhìn quanh. Trong vùng ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn phòng khách, cô thấy có gì là lạ. Genny lắc lắc đầu mấy cái cho thật tỉnh táo và quan sát kỹ… Cô bỗng lạnh sống lưng. Cô thấy chóng mặt, khẩu súng rơi khỏi tay cô lúc nào không hay.
Đây không phải là căn apartment của cô. Cô đã vào nhầm phòng.
Genny vội quỳ xuống bên người đàn ông. Gã nằm ngửa, hai mắt mở lớn, trợn trừng. Bàn tay phải mở ra cho thấy vật trong tay gã là chiếc muỗng nhôm. Một ly kem ăn dở và hộp kem mở nắp trên chiếc bàn thấp cạnh sofa. Máu vẫn loang trên sàn nhà…
Genny ngồi bật dậy, hoảng hốt… Cô đã làm gì vậy?! Cô đã giết người. Rồi Genny lại quỳ xuống, đặt tay lên ngực gã. Cô nhớ tới những thao tác CPR từng ứng dụng. Vô ích, viên đạn trúng ngay tim. Dưới chân cô đã là một xác chết. Cô nhìn lại bàn tay mình. Máu. Genny cố trấn tĩnh, gọi số 911 trước khi gieo mình xuống chiếc sofa mà người đàn ông đã ngồi trước đó ít phút.
Tiếng TV ở góc phòng phát đi bản tin về vụ cướp ở đâu đó. Genny nghe tiếng lao xao và tiếng chân người từ ngoài hành lang…
2.
Phiên tòa bước sang ngày thứ 5, dự trù sẽ đưa ra phán quyết chung thẩm. Genny trông hốc hác, hai mắt trũng sâu vì thiếu ngủ. Cô phải trả lời nhiều câu hỏi từ công tố viện. Trả lời câu hỏi đầu tiên, Genny nói cô không biết gì về Bruce, người hàng xóm đã thiệt mạng vì hai phát súng nghiệt ngã của cô đêm ấy. Người thanh niên da màu chết thật bất ngờ, không hiểu được vì sao mình phải chết.
Bruce ở lầu số 3, trong căn phòng ngay bên dưới phòng của Genny ở lầu 4. Anh là nhân viên kế toán của một công ty tài chánh. Bruce kém cô ba tuổi, là một thanh niên hiền lành và tốt bụng, hay giúp đỡ người khác. Ngoài công việc ở sở, anh là thành viên của Hội đồng Mục vụ Giáo xứ tại một nhà thờ ở địa phương trong nhiều năm.
Công tố viên muốn cô diễn lại trình tự mọi chuyện xảy ra vào hôm ấy và phóng ra liên tiếp những câu hỏi như không để cô có thì giờ đắn đo suy nghĩ.
“Chuyện gì làm cô không tỉnh táo hôm ấy?”
“Tôi không rõ. Có thể tôi đã làm việc quá sức. Tôi đã làm đến hơn 14 tiếng thay cho người bạn trong sở nghỉ bệnh.”
“Còn gì nữa?”
“Tôi về muộn, khá mệt mỏi sau một ngày dài làm việc. Từ lúc xuống xe ở parking, tôi vừa đi vừa text message với người bạn cùng sở nên không nhận ra mình đang ở lầu 3 chứ không phải lầu 4.”
“Mỗi phòng đều có tấm biển ghi số phòng gắn trên cửa, cô không nhìn số phòng?”
“Không,” Genny lắc đầu. “Phòng tôi ở dãy bên tay phải, cạnh phòng cuối cùng của hành lang. Rất dễ nhận biết, tôi cứ đi thẳng tới đó.”
“Khi mở cửa phòng, cô không nhận ra đấy không phải là phòng mình?”
“Không,” Genny lắc đầu. “Đèn không đủ sáng. Cách bài trí nơi phòng khách khá giống với phòng tôi. Bộ sofa cũng gần như cùng một kiểu, một màu.”
“Cô nghĩ gì và phản ứng thế nào vào lúc ấy?”
“Một kẻ lạ nào đó đột nhập phòng mình. Tôi rút súng ra. Tôi cần phản ứng thật nhanh, nghề nghiệp dạy tôi như vậy.”
Công tố viên không hỏi tiếp. Phòng xử chìm trong im lặng vài phút.
“Cô nghĩ gì trong đầu khi nổ súng vào người đó?”
“Tôi sợ,” Genny trả lời, giọng run run. “Tôi yêu cầu anh ta đứng yên và giơ tay lên đến mấy lần, nhưng anh ta bỗng hét lớn ‘Hey, hey, hey!’ như bị kích động và sấn về phía tôi. Tôi nghĩ anh ta sẽ giết mình. Tôi không còn cách nào. Bắn chậm thì chết.” Genny khóc nức lên…
Nhiều tiếng lào xào… Bà thẩm phán Tammie nhìn Genny chăm chú, khẽ gật gù.
“Tôi ngu ngốc quá!…” Genny nói trong tiếng nấc. “Tôi muốn được trừng phạt.”
“Cô nói tiếp đi, rồi sao nữa? Mọi người vẫn đang nghe cô.” Thẩm phán Tammie lên tiếng.
“Tôi thấy mình thật xấu xa, kinh tởm.” Genny nói nhỏ, cúi gầm mặt. “Tôi thù ghét tôi mỗi ngày. Tôi biết mình sẽ không bao giờ tìm được một ngày bình yên trong suốt phần đời còn lại.”
Genny sẽ nhận bản án chung thẩm hôm nay. Việc xét xử và nghị án có khuynh hướng bất lợi cho cô trong bối cảnh những đợt biểu tình phản đối tình trạng bạo hành của cảnh sát đối với người da màu gần đây vẫn chưa lắng xuống. Công tố viện có vẻ muốn cáo buộc tội sát nhân cho cô hơn là ngộ sát để làm dịu bớt những làn sóng phẫn nộ. Trong suốt phiên xử Genny tránh cái nhìn từ phía những người thân của Bruce. Cô tin là họ căm ghét mình và chỉ muốn cô phải chịu bản án nặng nhất.
Công tố viện đề nghị bản án 28 năm tù giam, bằng số tuổi của Bruce vào ngày sinh nhật của anh ta trong tháng này nếu như anh còn sống. Genny đã lấy đi những năm tuổi đẹp nhất của anh ta và cô phải trả lại đúng số năm ấy.
3.
Sau nhiều giờ nghị án của bồi thẩm đoàn, Genny sau cùng nhận phán quyết chung thẩm là 10 năm tù giam và có thể xin được ân xá sau 5 năm ngồi tù.
Những nguời thân trong gia đình nạn nhân được phép lên tiếng. Alice, mẹ của Bruce, chỉ sụt sùi kể lể, không nói được gì nhiều. Beck, ông bố, lắc lắc đầu tỏ dấu không muốn nói gì cả. Mọi người hướng mắt về Ben, em trai của Bruce, người lên tiếng sau cùng. Chàng trai 18 tuổi, mặc bộ vest đen chỉnh tề, đeo kính trắng, khuôn mặt có nét từa tựa ông anh cậu.
“Tôi không ghét chị, cho dù chị đã làm chúng tôi phải xa lìa Bruce.” Ben cất tiếng sau ít giây im lặng. Cậu đưa mắt về phía Genny, nói chậm rãi. “Tôi thực lòng mong muốn những điều tốt lành cho chị. Tôi cũng không muốn chị phải vào tù một ngày nào. Và tôi tin là Bruce, anh tôi, cũng muốn như vậy. Tôi hiểu Bruce hơn ai hết. Anh ấy rất mau quên và dễ tha thứ, anh ấy không muốn chị phải vào tù đâu. Anh ấy chẳng oán ghét ai bao giờ, và cũng chẳng muốn làm ai buồn khổ. Những gì tôi nói ra đây là những điều tôi học được từ Bruce. Giá như anh ấy có ở đây thì anh ấy cũng sẽ nói giống như tôi vậy. Việc đã rồi, chị đâu có muốn như thế, phải không? Chẳng ai muốn như thế cả.”
Ben ngừng lại. Phòng xử không một tiếng động. Mọi người im lặng, chờ nghe cậu nói tiếp. Ben nhìn thật lâu vào đôi mắt Genny đỏ hoe.
“Anh ấy chắc chắn tha thứ cho chị. Chị cũng cần tha thứ cho chị.” Ngừng một chút, Ben nói tiếp, “Nếu chị không làm được vậy, chị hãy tìm đến với Chúa. Một khi chị biết lỗi và hối lỗi thì Chúa sẽ tha thứ cho chị. Phần tôi…, tôi cũng tha thứ cho chị.”
Ben lại ngừng một chút, rồi cậu hướng cái nhìn về phía bà thẩm phán Tammie.
“Liệu tôi có thể dành cho chị ấy một cái ôm không?”
Không có tiếng trả lời.
“Tôi có được phép ôm chị ấy không?” Ben hỏi lại lần nữa, giọng khẩn khoản. “Tôi được phép chứ? Xin cho tôi…”
“Được,” bà thẩm phán nói, sau ít giây bối rối.
Ben rời bàn, bước xuống. Phía bên kia, Genny đưa mắt nhìn viên cảnh sát bên cạnh cô. Anh ta đứng lặng yên, không nói năng gì. Cô bước ra khỏi hàng ghế tiến về phía Ben. Khi tới gần Ben, cô dang rộng cánh tay, lao vào ôm chầm lấy cậu. Hai cánh tay cô quấn chặt cổ cậu.
Mọi người nghe rõ tiếng khóc nức lên của cả hai người.
Ben vòng tay ôm trọn tấm lưng Genny, hai bàn tay cậu xòe rộng xoa xoa, vỗ dọc lưng cô.
“Em tha thứ cho tôi, phải không?” Genny thì thầm. “Tôi không nghe lầm chứ? Tôi muốn được nghe lại một lần nữa. Xin làm ơn…”
“Tôi tha thứ cho chị.” Ben khẽ nói. “Bruce muốn tôi làm việc đó. Anh ấy và tôi tha thứ cho chị.”
Genny áp mặt vào ngực Ben. Hai người có lúc buông nhau ra, rồi lại ôm chặt lấy nhau.
“Thế còn những người khác trong gia đình em?” Genny khẽ hỏi.
“Tôi không rõ, tôi tin mọi người rồi sẽ tha thứ cho chị.” Ngừng một chút, Ben nói, “Tin tôi đi, khi tìm đến với Chúa, chị sẽ được bình an thôi. Hãy can đảm lên, chị hứa với tôi đi.”
“Tôi hứa, tôi hứa…” Genny nghẹn lời. Khuôn mặt cô đầm đìa nước mắt.
“Peace be with you,” Ben thì thầm lời cuối trong lúc chậm rãi buông cô ra.
Không một ai trong phòng nghe được họ nói gì. Viên cảnh sát dìu Genny về lại chỗ ngồi.
Ben quay nhìn Genny trong một thoáng trước khi rời phòng xử.
Ted, luật sư biện hộ cho Genny, chìa tay bắt tay bố của Ben khi cùng bước ra ngoài hành lang.
“Cậu bé này tốt hơn chúng ta rất nhiều, bản thân tôi cần học nhiều ở cậu. Chỉ có chiếc ôm ấy mới chữa lành được những vết thương.”
“Đúng thế,” Beck khẽ gật gật đầu.
Rồi ông quay nhìn con trai mình đứng phía sau, gật đầu và đưa ngón tay cái lên dứ dứ. Hai bố con cùng bước xuống những bậc thang cấp của tòa án.
“Vậy là xong,” Beck siết chặt vai cậu, nói. “Bố cám ơn con. Bố yêu con, Ben. Bây giờ Bố cảm thấy nhẹ nhõm. Tạ ơn Chúa, giờ đây Bố Mẹ vẫn có con bên cạnh. Tất cả rồi sẽ qua đi. Chúng ta cần phải sống. Mọi người cần phải sống. Chúng ta không để bất cứ thứ gì đè nặng trái tim mình.”
Ben im lặng, cậu cũng nghĩ như bố mình.
“Mỗi người một phần số,” Beck nói tiếp. “Chúng ta không làm khác đi được, nhưng chúng ta có thể làm nhẹ bớt phần nào những gánh nặng. Ai cũng cần một vòng tay ôm.”
Ben vẫn im lặng. Cậu hít sâu và thở ra một hơi dài. Cậu cũng cảm thấy nhẹ nhõm như bố.
Nắng đã tắt, chiều xuống dần. Beck lại bóp nhè nhẹ mấy cái vào vai Ben. Rồi ông choàng tay ôm lấy vai cậu và hai bố con khoác vai nhau bước đi thân mật như hai người bạn.
“Bố nói đúng,” Ben thầm nghĩ. “Ai cũng cần một vòng tay ôm.”
Lê Hữu
(Viết phỏng theo bản tin báo The Dallas Morning News, Oct 2, 2019)
Dr. Nguyễn Chí Long
E-mail: nguyen.c.long@gmail.com
Tổng truy cập: 188,926
Đang online: 6